Một số bệnh gan và các xét nghiệm sinh hoá

1. Viêm gan cấp

– Viêm gan virut cấp: Viêm gan do virut là một bệnh truyền nhiễm khá phổ biến, nhiều khi để lại hậu quả nặng trong đó có ung thư gan.
+ Các xét nghiệm sinh hoá cần làm gồm
– GOT, GPT huyết tương tăng nhanh, GPT tăng sớm trước khi có vàng da, mức tăng có thể tới 2000 – 3000 U/l.
GOT, GPT giảm nhanh trong vài ngày sau khi vàng da xuất hiện và trở về bình thường khoảng 2 – 5 tuần sau đó. Trong viêm gan kết hợp với nhiễm khuẩn (bạch cầu tăng), GOT và GPT tăng cao thường < 200 U/l, đạt cực đại sau 2 – 3 tuần từ lúc bệnh khởi phát và trở về bình thường ở tuần thứ 5.
– GGT cũng tăng cao, nhiều khi mức tăng cao hơn cả GPT. Điều đó nói lên GGT có nghĩa chẩn đoán sớm trong bệnh gan, mật.
– Trong viêm gan virut cấp, hoạt độ GPT > GOT > LDH.
– ALP và GGT tăng ít, chúng phản ánh tình trạng ứ mật nhẹ ở gan.
– CHE giảm từ tuần thứ 2 đến tuần thứ 4.
– Bilirubin tăng: ở giai đoạn vàng da cấp, bilirubin trực tiếp tăng, chiếm 50 – 70% (bình thường 25 – 30%), sau đó bilirubin gián tiếp tăng một cách tương xứng.
– Sắt huyết tương tăng.
– Điện di protein huyết tương, kết quả thay đổi như sau (Hình 1.1). Albumin giảm. (1, (2 – globulin tăng trong giai đoạn đầu, sau giảm dần. (- globulin tăng k do ài. (- globulin tăng thường xuyên.
Sau 1 – 2 tuần điều trị, GOT và GPT trở về bình thường, GGT trở về bình thường chậm nhất, nhưng khi GGT trở về bình thường sẽ cho biết tế bào nhu mô gan đã ổn định – điều đó có gợi ý là xét nghiệm GGT còn có nghĩa tiên lượng, điều trị bệnh viêm gan virut.
Sau giai đoạn vàng da của bệnh viêm gan virut cấp, nếu điều trị tốt thì sẽ chuyển sang giai đoạn lui bệnh. Đây là giai đoạn khởi đầu cho sự hồi phục. Các biểu hiện của giai đoạn này là:
– Tăng bài niệu.
– Bilirubin niệu giảm dần và biến mất trong khi bilirubin huyết tương vẫn còn cao so với bình thường.
– Urobilinogen nước tiểu tăng.
– Bilirubin huyết tương tăng.
Nếu theo dõi và điều trị không tốt, viêm gan virut cấp dễ chuyển sang viêm gan mạn. * Viêm gan do rượu
– Tăng GGT kết hợp với MCV (thể tích trung bình hồng cầu) > 100 hoặc tăng riêng lẻ có giá trị chẩn đoán viêm gan do rượu.
– GOT tăng (<300U/l), nhưng GPT bình thường hoặc tăng nhẹ. Xét nghiệm GOT, GPT có độ đặc hiệu cao hơn nhưng độ nhạy thấp hơn so với GGT. Tỷ số GOT/GPT >1 kết hợp với GOT tăng (<300U/l) cho biết có khoảng 90% bệnh nhân bị bệnh gan do rượu. Điều này phân biệt với viêm gan virut có sự tăng đồng đều GOT và GPT.

– Trong viêm gan do rượu cấp, GGT thường tăng cao nhanh, mức tăng GGT > GOT. GGT thay đổi bất thường trong viêm gan do rượu, thậm chí cả ở người có tiền sử bệnh gan bình thường.
– Alkaline phosphatase, bilirubin huyết tương có thể bình thường hoặc tăng nhẹ nhưng không có giá trị chẩn đoán. Tuy nhiên, nếu bilirubin tiếp tục tăng trong suốt 1 tuần điều trị thì cần xem xét lại chẩn đoán.

2. Viêm gan mạn

Trong viêm gan mạn có 5 – 10% nguyên nhân là do có viêm gan virut B cấp. Nhìn chung viêm gan virut B cấp có thể chia làm 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn viêm gan cấp
Thường kéo dài 1 – 6 tháng với các triệu chứng
– GOT, GPT tăng hơn 10 lần so với bình thường.
– Bilirubin bình thường hoặc tăng nhẹ.
+ Giai đoạn viêm gan mạn: Enzym gan tăng hơn 50% k do ài cho đến trên 6 tháng, có thể đến 1 năm hoặc nhiều hơn. Đa số các trường hợp bệnh được điều trị không tốt sẽ dẫn đến xơ gan và suy gan. Hoạt độ GOT, GPT tăng 2 – 10 lần so với mức bình thường.
+ Giai đoạn hồi phục
– Bệnh nhân ổn định, khoẻ mạnh và hết các triệu chứng.
– GOT, GPT huyết tương giảm về bình thường hoặc giảm đến giới hạn thấp.
– Viêm gan mạn ổn định: Các enzym thường được định lượng để theo dõi viêm gan mạn là GOT, GPT, GGT và CHE. Các xét nghiệm về enzym cho biết sự diễn biến, mức độ tổn thương tế bao nhu mô gan.
– GOT, GPT và GGT tăng vừa phải (vì nhu mô gan tổn thương nhẹ).
– ALP, GLDH, CHE ở giá trị bình thường.
– Bilirubin TP tăng nhẹ, có thể lớn hơn 17,1 (mol/l.
Nếu không uống rượu, bia và chế độ làm việc nhẹ nhàng thì bệnh có tiên lượng tốt.
– Viêm gan mạn tiến triển (hoạt động):
+ GOT và GPT tăng nhẹ; GGT và GLDH tăng mạnh phản ánh sự tổn thương nặng tế bào nhu mô gan.
+ CHE và các enzym đông máu giảm.
+ Bilirubin máu tăng.
Nếu điều trị không tốt, viêm gan mạn tiến triển dễ chuyển thành xơ gan; tiên lượng bệnh xấu hơn.

3. Xơ gan

– Bilirubin thường tăng, có thể tăng ài trong nhiều năm, chủ yếu là tăng bilirubin tự do (trừ trường hợp xơ gan do tắc mật thì tăng bilirubin liên hợp). Sự ao động tăng, nhiều hay ít của bilirubin phản ánh tình trạng chức năng của gan. Nồng độ bilirubin tăng cao hơn gặp ở xơ gan sau hoại tử.
– Hoạt độ GOT tăng cao ((300 u/l) ở 65 – 75% số bệnh nhân xơ gan. GPT tăng, mức tăng thấp hơn (< 200 u/l) trong 50% số bệnh nhân. Mức độ thay đổi GOT và GPT phản ánh sự hủy hoại tế bào nhu mô gan.
– ALP tăng ở 40 – 50% số bệnh nhân.
– Protein huyết tương bình thường hoặc giảm nhẹ. Albumin huyết tương có thể bình thường khi có sự hủy hoại nhẹ tế bào gan. Sự giảm albumin huyết tương phản ánh sự tiến triển của cổ trướng hay xuất huyết.
– Cholesterol TP huyết tương bình thường hoặc giảm nhẹ. Giảm cholesterol este phản ánh tình trạng giảm chức năng gan do tế bào nhu mô gan bị hủy hoại nhiều hơn.
– Bilirubin niệu tăng, urobilinogen bình thường hoặc tăng.
– Acid uric huyết tương thường tăng.
– Cân bằng điện giải và cân ằng acid – base phản ánh sự rối loạn kết hợp khác nhau vào một thời điểm như suy dinh dưỡng, mất nước, xuất huyết, nhiễm toan chuyển hoá, nhiễm toan hô hấp. * Xơ gan do rượu
– GOT, GPT tăng có thể tới 4 – 5 lần bình thường, mức độ tăng GOT > GPT.
– GGT tăng cao.
– GLDH tăng nhẹ.
– ALP, bilirubin có thể bình thường.
– CHE giảm.
Trong các xét nghiệm trên, chú ý xét nghiệm GGT, GLDH vì chúng phản ánh mức độ nhiễm độc rượu và mức độ tổn thương tế bào gan.
– Xơ gan sau viêm gan
Tiên lượng bệnh nặng hơn so với xơ gan do rượu. Các xét nghiệm sinh hoá thường thấy kết quả sau:
+ GOT và GPT tăng, mức tăng GPT > GOT.
+ GGT tăng, mức tăng ít hơn so với xơ gan do rượu.
+ ALP tăng.
+ CHE giảm.
+ Có thể có vàng a do bilirubin máu tăng.
+ GLDH tăng mạnh phản ánh sự hủy hoại mạnh tế bào nhu mô gan.
+ Nghiệm pháp galactose niệu: dương tính.
+ Bilirubin có thể giảm trong một số trường hợp viêm gan hay xơ gan.
Đối với xơ gan sau viêm gan cần phải kiểm tra và theo dõi 6 tháng/1 lần các enzym ALP, GLDH, LDH, GGT. Nếu bệnh tiến triển xấu thì 3 – 4 tháng cần kiểm tra 1 lần.
– Xơ gan mật: Xơ gan mật có 2 loại: xơ gan mật nguyên phát và xơ gan mật thứ phát.
+ Xơ gan mật nguyên phát
– Các triệu chứng lâm sàng của ứ mật điển hình trong khoảng thời gian dài (có thể k do ài vài năm) kết hợp với tăng kháng thể IgM. Người ta dựa vào kháng thể (của IgM) để phân biệt xơ gan mật nguyên phát và xơ gan thứ phát.
– Bilirubin bình thường ở giai đoạn sớm của ứ mật nhưng tăng ở 60% bệnh nhân trong quá trình của bệnh và là một dấu hiệu cho chẩn đoán chắc chắn. Bilirubin trực tiếp tăng: 80% bệnh nhân có mức tăng cao hơn 85,5 (mol/l (5mg/l) và 20% bệnh nhân có tăng cao hơn 171 (mol/l (>10 mg/l). Bilirubin gián tiếp bình thường hoặc tăng nhẹ.
– ALP huyết tương tăng rõ rệt ở 50% trường hợp, mức tăng > 5 lần so với bình thường.
– ALP, GGT tăng rất mạnh phản ánh tình trạng ứ mật ở gan.
– GLDH, GOT, GPT tăng cao.
– 5’ – nucleoti ase, GGT tăng song song với ALP. (5’ – nucleoti ase bình thường: 2 – 15 U/l); ngoài ra còn tăng trong tắc đường dẫn mật trong và ngoài gan, tăng trong viêm gan, chủ yếu là tăng trong trường hợp có ứ mật trong gan.
– CHE giảm ở giai đoạn muộn của bệnh.
– Cholesterol tăng rõ rệt.
+ Xơ gan mật thứ phát: Xơ gan mật thứ phát có kết hợp với viêm đường mật và ứ mật, các xét nghiệm sinh hoá thường có kết quả như sau:
– GOT, GPT, GLDH tăng cao so với bình thường.
– ALP, GGT tăng cao.
– CHE giảm ít và có thể bình thường.
+ Hội chứng tắc mật
– Bilirubin TT tăng cao, bilirubin TP máu tăng.
– Phosphatase kiềm tăng.
– Cholesterol TP tăng.
– Bilirubin niệu dương tính, urobilinogen giảm, stercobilinogen giảm.

Nguồn: Tài liệu tham khảo

 

Rate this post

Bình luận bằng facebook

bình luận

Trả lời