Hysteria và rối loạn phân ly

Hysteria và rối loạn phân ly

  1. MỞ ĐẦU

Từ thời Trung Cổ người ta đã có những ghi nhận mô tả về một hiện tượng ngất hoặc co giật xảy ra trên từng cá thể và có khi là với số đông người cùng một lúc mà không tìm thấy nguyên nhân. Theo quá trình phát triển xã hội ngày một hiện đại, các ca bệnh kiểu như trên vẫn thường xuất hiện trên một số cá thể và đôi khi xuất hiện trên cả một tập thể lớn. Hiện tượng này đã gây trở ngại cho các mối quan hệ của bệnh nhân với môi trường xung quanh và gây khó khăn trong công tác chẩn đoán, điều trị

Theo các nhà tâm thần học thì đây là một bệnh lý trong tâm thần học mà trước đây có tên gọi là “Hysteria”, hiện nay gọi là rối loạn phân ly.

Vậy “Hysteria” là gì?

– Hysteria là một bệnh rối loạn tâm căn. Bệnh thường xuất hiện sau một chấn thương tâm lý, ở những người có nhân cách yếu.

– Tỷ lệ gặp ở 0,3-0,5% dân số.

– Thường gặp ở phụ nữ, nhất là ở phụ nữ trẻ. Tần suất bệnh gặp ở nữ giới nhiều hơn nam giới khoảng 10 lần.

  1. Khái niệm: Theo ICD-10 thì rối loạn phân li là hiện tượng mất một phần hay hoàn toàn sự hợp nhất bình thường giữa trí nhớ quá khứ, ý thức và đặc tính cá nhân với những cảm giác trực tiếp và sự kiểm soát những vận động của cơ thể.
  2. Lịch sử, nguồn gốc tên gọi.

Hypocrates, ông tổ của y học đã mô tả rất đầy đủ các triệu chứng của bệnh này mà người đời sau không phát hiện được gì thêm.Trong các tài liệu của mình, Hippocrates không đề cập đến tên “Hysteria” để chỉ bệnh, nhưng ông có đề cập đến một loạt các triệu chứng bệnh, chẳng hạn như nghẹt thở và bệnh Heracles là hội chứng chuyển động tử cung của người phụ nữ đến các địa điểm khác nhau trong cơ thể của mình, tử cung có màu sáng và khô do thiếu các chất dịch của cơ thể. Ông đề xuất nên mang thai để điều trị bệnh này. Theo ông, giao hợp sẽ “làm ẩm” tử cung và tạo điều kiện lưu thông máu trong cơ thể sẽ làm thuyên giảm các triệu chứng. Ông chỉ chưa phân biệt bệnh này với động kinh mà thôi.

Tiếp đó đến thế kỷ 18 tại châu Âu, vì không tìm được các căn nguyên nào thỏa đáng để giải thích bệnh, mặt khác bệnh lại hay xảy ra trên nữ giới do đó một số tác giả như Platon vẫn cho rằng “hysteria” là những rối loạn chức năng tình dục và là bệnh của phụ nữ gây ra bởi những rối loạn của tử cung, tiếng Hy Lạp “hysteria” là tử cung. Do vậy, việc xoa bópbộ phận sinh dụccủa bệnh nhân, hay dùng máy rung hoặc phun nước để gâycực khoái là cách điều trị chủ yếu điều trị bệnh.

Đến giữa thế kỷ XVII, một thầy thuốc danh tiếng là Lepois C. tuyên bố: đây là bệnh xuất phát từ não, không phải do tử cung vì ông đã phát hiện rằng “Hysteria” xảy ra ở cả nam lẫn nữ giới tuy số người nam mắc ít hơn nhiều so với nữ. Vào những năm cuối thế kỉ 19, Charcot J M. một nhà thần kinh học Pháp cũng đã nhìn nhận Hysteria như là một chứng rối loạn tâm lý và ông đã xây dựng lý thuyết về cơ chế “hysteria” thông qua nghiên cứu về “bệnh thần kinh” đối với các bệnh nhân ngoại trú vào năm 1887 và 1888. Sau đó, ông tiếp tục các nghiên cứu đầy đủ của mình về hysteria tại bệnh viện Salpetriere ở Pháp, nơi đây ông đã tuyên bố nguyên nhân của chứng hysteria là do “yếu tố di truyền” và ông đã sử dụng phương pháp thôi miên để điều trị bệnh.

Năm 1893Freud S. dựa trên những khám phá của Charcot đã định nghĩa “hysteria”là một dạng “phân ly của ý thức”. Freud viết một loạt các bài về “Hysteria” để phổ biến những quan điểm trước đó của Charcot cũng như những quan điểm phát triển của mình về “Hysteria”.

Càng về sau với sự hiểu biết ngày một đầy đủ hơn về khoa học từ “Hysteria” được thay thế bằng từ “các rối loạn phân ly”

  1. VỀ NGUYÊN NHÂN CƠ CHẾ BỆNH SINH.
  2. Nguyên nhân cơ chế bệnh sinh.

Cho đến nay, người ta chưa tìm thấy tổn thương nào ở não bộ là nguyên nhân gây ra bệnh này. Theo các tác giả thì đây là các rối loạn này mang tính chức năng.

Nguyên nhân chủ yếu của các rối loạn phân ly là các chấn thương tâm lý hoặc hoàn cảnh xung đột. Đó là những chấn thương gây cảm xúc mạnh như lo sợ cao độ, tức giận quá mức, thất vọng nặng nề… Theo đa số các tác giả thì các rối loạn phân li xảy ra là do sự kết hợp chặt chẽ về mặt thời gian với các sự kiện gây sang chấn, những vấn đề không giải quyết và căng thẳng về thần kinh với các yếu tố “tâm sinh” của người bệnh. Các rối loạn này thường phát sinh một thời gian ngắn sau khi chấn thương. Đôi khi khó tìm thấy dấu vết của các chấn thương tâm lý, nhất là các trường hợp tái phát nhiều lần.

Trong rối loạn phân ly cơ chế ám thị và tự ám thị đóng một vai trò quan trọng. Trong một môi trường làm việc, học tập căng thẳng hoặc các mâu thuẫn không thể giải quyết…Các rối loạn phân li xuất hiện như một cơ chế tự phòng vệ nhằm để bảo vệ thần kinh khỏi những sang chấn tâm lý trong một nỗ lực nhằm giảm bớt đi cảm nhận khó chịu về lo âu và bất lực. Vì vậy, những triệu chứng của rối loạn phân li thường rất đột ngột, liên quan đến những sang chấn về tâm lý

Về vai trò của não bộ trong rối loạn phân li nhiều nghiên cứu cho thấy: có sự giảm sút khả năng kiểm soát có ý thức và có chọn lọc ở một mức độ của vỏ não có thể thay đổi từ ngày này sang ngày khác hoặc từ giờ này sang giờ khác. Người ta nhận thấy khi hoạt động của vỏ não suy yếu sẽ không kiểm soát được dưới vỏ, như vậy sẽ không kiềm chế được cảm xúc và những chức năng khác của vùng dưới vỏ. Trước kích thích mạnh của sang chấn, khi vỏ não ở trạng thái ức chế sẽ không điều hòa được vùng dưới vỏ nên hoạt động của vùng này tăng và xuất hiện các triệu chứng đa dạng của rối loạn phân ly.

  1. Điều kiện thuận lợi

* Các yếu tố thuận lợi thúc đẩy các rối loạn phân ly trước hết là nhân cách yếu, thiếu tự chủ, thiếu kiềm chế, thích được chiều chuộng, thích phô trương, tinh thần chịu đựng khó khăn kém, thiếu lý tưởng sống lành mạnh. Thường gặp ở loại hình thần kinh nghệ sĩ.

Để nhận biết nhân cách Hysteria, một loại nhân cách có “phương thức đáp ứng cảm xúc thái quá” theo DSM-III R gồm 4 trong 8 thuộc tính sau:

– Tìm kiếm hoặc đòi hỏi dai dẳng tán đồng khen của người khác.

– Điệu bộ, hành vi quyến rũ không thích hợp (ăn mặc phô diễn, lòe loẹt).

– Bận tâm thái quá tổn thương của cơ thể.

– Biểu lộ thái quá về cảm xúc, nức nở về những chuyện nhỏ.

– Khó chịu khi không được xem là trung tâm chú ý của mọi người.

– Hời hợt, dễ thay đổi.

– Hành vi nhằm đạt được sự thỏa mãn ngay lập tức.

– Văn phong cực kì hào nhoáng gây ấn tượng nhưng nội dung nghèo nàn.

Bệnh Hysteria khác hoàn toàn với nhân cách Hysteria. Những người có cơn Hysteria chưa chắc có nhân cách Hysteria, đặc biệt ở những trường hợp ngất tập thể. Tuy nhiên, những người có nhân cách Hysteria thường tiềm ẩn một mâu thuẫn sâu xa và dễ bộc phát thành những cơn Hysteria.

* Nhiễm khuẩn, nhiễm độc chấn thương sọ não.

III. CÁC TRIỆU CHỨNG THƯỜNG GẶP

Triệu chứng của rối loạn phân li là rất phong phú và đa dạng. Các triệu chứng bệnh có thể “bắt chước” nhiều triệu chứng của các bệnh khác.

  1. Rối loạn vận động: Rất đa dạng như lắc đầu, gật đầu, nháy mắt, múa giật, múa vờn… Hay gặp nhất lại là run toàn thân hoặc run cục bộ một phần cơ thể, run tăng lên khi chú ý. Triệu chứng liệt phân ly cũng hay gặp ở các mức độ khác nhau, gặp cả liệt cứng và liệt mềm, một chi, hai chi hoặc cả tứ chi, nhưng trương lực cơ không thay đổi. Có thể gặp chứng rối loạn phát âm như khó nói, nói lắp, không nói. Các triệu chứng trên không phù hợp với phân vùng thần kinh chi phối hoặc cơ quan phát âm không bị tổn thương.
  2. Rối loạn cảm giác: Rối loạn cảm giác thường gặp trong phân ly là cảm giác đau. Các khu vực mất cảm giác không đúng với vùng định khu của thần kinh cảm giác. Tăng cảm giác đau trong phân ly phức tạp hơn nhiều, dễ làm cho người ta nhầm với các triệu chứng đau “thực vật” và đau ngoại khoa như đau viêm ruột thừa, đau giun chui ống mật, đau vùng trước tim, đau dây thần kinh hông…
  3. Rối loạn các giác quan: mù, điếc phân ly, mất vị giác và khứu giác phân ly, các rối loạn thực vật – nội tạng phân ly…
  4. Rối loạn tâm thần: quên, rối loạn cảm xúc, rối loạn tư duy…
  5. Sững sờ phân ly: Vận động tự chủ giảm hoặc mất, người bệnh nằm hoặc ngồi bất động trong thời gian dài. Không nói và không hoạt động, không có các đáp ứng với một số kích thích như tiếng động, ánh sáng. Bệnh nhân không mất ý thức, hai mắt mở hoặc nhắm nghiền, không có các rối loạn cơ thể hoặc tâm thần khác liên quan đến trạng thái sững sờ. Cần phân biệt với sững sờ căng trương lực, sững sờ trầm cảm.
  6. Các rối loạn lên đồng và bị xâm nhập: Bệnh nhân mất ý thức tạm thời. Hành động của cá nhân như một nhân cách khác, một linh hồn khác, một vị thần hoặc một lực lượng nào đó điều khiển. Xuất hiện một số động tác, tư thế, lời nói hạn chế và lặp lại. Các rối loạn đó xuất hiện không tự ý, không mong muốn và xuất hiện, cần phân biệt với hội chứng tâm thần tự động hoặc hoang tưởng bị chi phối thường gặp trong bệnh tâm thần phân liệt.
  7. HỘI CHỨNG PHÂN LY TẬP THỂ LÀ GÌ?

Trong thời gian gần đây đã xuất hiện hiện tượng ở một số trường học, nhà máy học sinh, công nhân, đặc biệt là giới nữ bị ngất hàng loạt. Hiện tượng này đã gây khá nhiều mối quan ngại của cộng đồng xã hội và nó được giải thích theo nhiều xu hướng khác nhau trong đó có cả xu hướng mang mầu sắc mê tín.

 

Công nhân bị ngất xỉu hàng loạt

Nhiều nghiên cứu trước đây đã chứng minh được rằng: chứng “cuồng loạn, co giật hoặc ngất hàng loạt” đã xuất hiện từ trước Công nguyên. Trong các thế kỷ tiếp đó, tiếp tục có những báo cáo về căn bệnh “cuồng loạn hoặc ngất hàng loạt” này trên các tập thể công nhân, đặc biệt những nước công nghiệp phát triển có cường độ lao động căng thẳng như: Đức, Pháp, Italia…Tại Việt Nam, trong những năm kháng chiến chống Mỹ gian khổ, chúng ta đã từng ghi nhận ở một số đơn vị, đặc biệt là những đơn vị nữ thanh niên xung phong có những hiện tượng ngất tập thể mà cũng không tìm được căn nguyên nào.

Bằng sự hiểu biết đầy đủ có căn cứ về mặt khoa học các nhà tâm thần học khẳng định: đây chính là rối loạn phân li hay Hysteria và khi nó xảy ra trên tập thể đông người thì được gọi là “Rối loạn phân li tập thể”

* Về cơ chế gây bệnh cũng như trong “Hysteria”, cộng thêm trong cùng một môi trường sang chấn (như áp lực công việc cao, áp lực học hành…) và khi có một người trong tập thể bị cơn Hysteria thì nhiều người khác có thể cũng có thể lên cơn xem như một cơ chế tự giải thoát khỏi áp lực, làm xuất hiện hiện tượng bệnh mang tính tập thể.

* Ngoài các yếu tố thuận lợi có thể gây ra rối loạn phân li, thì trong hội chứng phân li tập thể có thể kết hợp thêm một số yếu tố như:

– Một vài bệnh lí tâm thần: theo kết luận nghiên cứu của Engs. RTrường đại học Indiana (Mỹ) thì trầm cảm…là một nguyên nhân dẫn đến việc ngất xỉu hàng loạt của các nữ công nhân.

– Suy dinh dưỡng: chế độ dinh dưỡng không được đảm bảo. Một khảo sát khác tại Việt Nam về chế độ dinh dưỡng của học sinh một trường học có hiện tượng học sinh ngất xỉu hàng loạt thấy rằng có đến 50% trong tổng số học sinh bị ngất xỉu vừa qua không được đáp ứng đủ Kcal trong bữa ăn sáng.

– Người ta cũng nhận thấy rằng khi áp lực công việc, học hành rất lớn là điều kiện thuận lợi để hiện tượng ngất xỉu dễ xuất hiện và lây lan phát triển thành “dịch”.

* Về lâm sàng trong “Rối loạn phân li tập thể”, có thể gặp tất cả các triệu chứng của rối loạn phân li kể trên; nhưng thường gặp hơn là những cơn ngất hoặc co giật tập thể, mang tính “lây lan”. Các tác giả giải thích đó là: “Hysteria” như một hiện tượng “vỡ đê”. Một người ngất xỉu như đã khai thông một lối ra, một phản ứng lại sức ép từ một sự căng thẳng quá mức, nên gây ra hiện tượng ngất xỉu tập thể.

  1. TIẾN TRIỂN, TIÊN LƯỢNG BỆNH.

Sự khởi đầu và kết thúc của các trạng thái phân li thường đột ngột. Sự thay đổi hoặc biến mất trong quá trình làm liệu pháp tâm lí như thôi mien, ám thị hoặc hồi cảm. Tất cả trạng thái phân li có khuynh hướng thuyên giảm trong vài tuần hoặc vài tháng đặc biệt nếu chúng khởi đầu của chúng kết hợp với sự kiện đời sống gây sang chấn. Một số các trạng thái khác thuyên giảm chậm hơn như liệt và tê nếu chúng kết hợp với những vấn đề không giải quyết được hoặc những mối quan hệ phức tạp giữa người và người.

Nói chung, bệnh này không nặng nhưng gây cho bản thân người bệnh và cả những người xung quanh rất nhiều phiền toái. Nhiều mối quan hệ bị rối loạn. Người có nhân cách Hysteria làm việc thường kém hiệu quả do họ không thể tập trung vào công việc

  1. ĐIỀU TRỊ

– Rối loạn phân li có biểu hiện lâm sàng rất phong phú và bắt chước bất cứ triệu chứng một bệnh lí nào đó của các chuyên khoa khác nhau. Bệnh lại thường khởi phát cấp diễn nên dễ nhầm với các tình huống cấp cứu nội, ngoại, thần kinh…Vì vậy, cần phải được chẩn đoán rất cẩn thận, chính xác.

– Rối loạn phân li không phải là bệnh giả vờ. Vì vậy, không chỉ bác sĩ, mà những người xung quanh phải đối xử với bệnh nhân bằng thái độ thông cảm. Không coi thường chế giễu người bệnh. Tránh thái độ quan trọng hoá vấn đề cũng như quá chiều chuộng, quá lo lắng, theo dõi quá chặt chẽ, càng lo lắng bệnh càng nặng lên.

– Vì nguyên nhân bệnh là tâm lý nên nên điều trị chủ yếu bằng liệu pháp tâm lý, mất nhiều thời gian nên cần sự kiên trì của bệnh nhân, gia đình, cũng như của nhà trị liệu.

– Trong điều trị tâm lí cần lưu ý:

  • Cần cách ly ngay người bệnh khỏi nguồn sinh ra áp lực, mâu thuẫn, hay sang chấn tâm lý.
  • Áp dụng các liệu pháp tâm lí phải tùy thuộc vào từng bệnh nhân và điều kiện hoàn cảnh tác nhân gây sang chấn,
  • Cân bằng lại quá trình hưng phấn và ức chế của vỏ não bằng các liệu pháp ám thị thôi miên kết hợp với nghỉ ngơi hợp lí…sẽ có tác dụng tốt.
  • Điều trị triệu chứng: có thể kết hợp xoa bóp bấm huyệt với các liệu pháp tâm lí làm tăng hiệu quả điều trị.
  • Cần áp dụng thêm các liệu pháp tâm lí khác nhằm nâng đỡ nhân cách cho người bệnh như liệu pháp thư giãn luyện tập…

– Có thể điều trị kết hợp bằng những thuốc giải lo âu, làm dịu đi những tổn thương về mặt tâm thần; các thuốc vitamin, thuốc bổ dưỡng bảo vệ tế bào não, nâng đỡ thể chất và tinh thần.

– Đối với “ Rối loạn phân li tập thể”: trong tập thể cùng một môi trường bị sang chấn tâm thần, khi xuất hiện ca đầu tiên cần nhanh chóng cách ly ngay người bệnh, không cho hoặc hạn chế mọi người tiếp cận với người bệnh đó để giảm tác hại của bệnh, tránh hiện tượng “lây lan” thành bệnh tập thể.

VII. PHÒNG BỆNH

Rối loạn phân li là một bệnh xuất hiện thường do sang chấn kết hợp với nhân cách yếu và một vài yếu tố thuận lợi khác…Do vậy, để dự phòng bệnh này:

– Cần tuyên truyền giáo dục phổ cập những hiểu biết cần thiết về các rối loạn phân ly.

– Để tránh bị nhân cách Hysteria cần rèn luyện tính cách ngay từ khi còn nhỏ, hướng dẫn trẻ biết thương yêu, chia sẻ, đương đầu với khó khăn.

Hoạt động ngoại khóa tạo môi trường tốt phòng chống rối loạn phân li

– Gia đình, nhà trường và xã hội tăng cường giáo dục, quản lý con em mình, bồi dưỡng nhân cách, lối sống tốt đẹp, lành mạnh, tính đoàn kết, thân ái, tính tập thể, biết khắc phục khó khăn tránh các stress tâm lí trong sinh hoạt, học tập và công tác.

– Tăng cường các hoạt động ngoại khóa như: ca, múa, nhạc, đi dã ngoại, tập thể dục, chơi các môn thể thao và lao động tập thể…

– Trong môi trường làm việc học tập căng thẳng thì việc cải thiện môi trường, kết hợp giữa công việc và nghỉ ngơi hợp lí làm giảm sức ép làm việc và học tập, cũng như đảm bảo chế độ dinh dưỡng để nâng cao sức khỏe thể chất cho người bệnh là một việc làm cần thiết để phòng bệnh.

– Nhân cách của nữ thường yếu và hay mắc bệnh hơn nam. Vì vậy, cần thiết bố trí số lượng nam nữ hài hòa trong một tập thể để tránh hiện tượng “lây lan” bệnh. Khi bệnh xảy ra thì chính các em nam sẽ là chỗ dựa về tâm lí cho các em nữ.

 

CÁC ĐỊA CHỈ CẦN TƯ VẤN VÀ ĐIÈU TRỊ

– Bệnh viên Tâm thần Trung ương 1,2.

– Viện sức khỏe Tâm thần Quốc gia

– Bệnh viện, trạm tâm thần tuyến tỉnh

BS CKII. Nguyễn Hoàng Điệp

  Ban biên tập trang Web BVTTTW1

Rate this post

Bình luận bằng facebook

bình luận

Trả lời